ĐẦU RỒNG ĐẤT NUNG THỜI LÝ Ở CHÙA PHẬT TÍCH, XÃ PHẬT TÍCH, HUYỆN TIÊN DU
Chùa Phật Tích (còn có tên chữ là Thiên phúc tự, Vạn Phúc tự) toạ lạc bên sườn phía Nam núi Phật Tích thuộc địa bàn xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.Theo các nguồn tài liệu cổ ghi lại, chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057) dưới thời nhà Lý do vua Lý Thánh Tông xây dựng với quy mô to lớn. Chùa Phật Tích đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2014.
Theo sách "Đại Việt Sử Ký toàn thư" và các dấu tích, di vật tìm thấy ở khu vực chùa, Vạn Phúc tự được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VII - X. Ngay từ khi khởi dựng, chùa Phật Tích là nơi hội tụ và dừng chân của các nhà truyền giáo đầu tiên từ Ấn Độ sang nước ta và các thiền sư đạo cao, pháp minh. Tuy nhiên, phải đến thời Lý (1010-1025) mô hình sinh hoạt tại chùa mới rõ nét và quy mô lớn chùa trở thành Quốc tự. Năm 1041, Lý Thái Tông cho xây Viện Từ Thị Thiên Phúc và đúc tượng Phật A Di Lặc nặng 7.560 cân để tôn thờ. Năm 1057 - 1066, vua Lý Thánh Tông cho xây chùa Thiên Phúc và dựng tháp cao nhất nước, bên trong dựng tượng Phật hiện cao 1,87m, cả bệ là 2,87m, đúc 2 tượng Phạm Thiên và Đế Thích bằng vàng thờ trước chùa. Theo sử sách, năm 1071 vua Lý du ngoạn đến Phật Tích đã viết chữ Phật dài 1 trượng 6 thước (5m), sai khắc vào đá để ở chùa trên núi Tiên Du. Năm 1129, dưới triều vua Lý Thần Tông đã khánh thành 84.000 bảo tháp đất nung, đặt ở nhiều nơi trong cả nước, riêng ở Phật Tích đặt 8 vạn tháp, vì vậy dãy núi ở Phật Tích được mang tên Bát Vạn sơn.
Sang đời Trần (1226 - 1400), chùa Thiên Phúc vẫn là quốc tự nhưng được đổi tên là Vạn Phúc.Năm 1279 - 1280, vua Trần Nhân Tông đã cho xây cung Bảo Hoa, sau khi khánh thành, nhà vua đã soạn tập thơ Bảo Hoa dư bút gồm 8 quyển để kỷ niệm. Khoảng năm 1337- 1347, nhà Trần xây dựng thư viện lớn trên núi Phật Tích. Danh nho Trần Tôn được cử trông coi thư viện này. Năm 1370 Vua Trần Nghệ Tông cho xây dựng thư viện Lạn Kha do chính ông làm Viện trưởng, để đọc sách, thưởng ngoạn và hành cung của triều đình. Năm 1384, Vua tổ chức cho thi Thái học sinh (Tiến sĩ) tại đây để chọn người tài đức phục vụ đất nước.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” chép rằng: “Chùa Vạn Phúc ở núi Lạn Kha xã Phật Tích, huyện Tiên Du, dựng thời Lý Thánh Tông. Đời Xương Phù (1377), vua Trần Nghệ tông thi Thái học sinh ở đây”. Năm 1383, vua Trần Nhân Tông và quần thần sáng tác tập thơ “Bảo Hoa dư bút” tại chùa Phật Tích. Thời Lê Cảnh Hưng (1740- 1786) mở yến hội. Chùa cũng là nơi ghi nhận dấu ấn một thiền sư Trung Hoa nổi tiếng - thiền sư Chuyết Chuyết. Từ năm 1635 - 1644, Thiền sư Chuyết Công đến hành đạo tại chùa Phật Tích, chúa Trịnh Tráng, vua Lê Huyền Tông và các bậc công hầu đều kính trọng. Chúa Trịnh Tráng muốn có thêm kinh điển Phật giáo để lưu hành trong nước nên thiền sư đã cho đệ tử Minh Hành về Trung Hoa thỉnh kinh. Kinh điển thỉnh về, một số được khắc để phổ biến, số còn lại và các bản khắc đều được tàng trữ tại chùa Phật Tích. Kể từ khi xây dựng năm 1057, chùa Phật Tích đã được các triều đại phong kiến chọn sử dụng vào các công việc xã hội ngoài phạm vi tôn giáo một cách hiệu quả. Đến thời Lê Trung Hưng (1686), chùa bị xuống cấp, các vua Lê đã cho tu bổ lại như quy mô cũ, gọi là chùa Phật Tích (tên chữ là Vạn Phúc)”.
Dưới thời Nguyễn, chùa Phật Tích cũng được tu bổ nhiều lần. Đến giai đoạn từ năm 1949 - 1952, thực dân Pháp chiếm chùa Phật Tích và phá hủy hoàn toàn ngôi quốc tự này, chỉ còn nền gạch và một số pho tượng Tổ, một vài Pháp khí khác. Năm 1959, chùa Phật Tích được Nhà nước cho xây dựng lại với quy mô nhỏ để giữ gìn các di vật còn lại. Năm 2008, khởi công xây dựng mới một số công trình, trong đó tòa Tam bảo là hạng mục kiến trúc chính đặt photượng Phật A Di Đà bằng đá xanh đang ngồi thiền định trên tòa sen, bức tượng cao 1,86 m, thêm phần bệ thì đạt 2,69m. Trên bệ và trong những cánh sen, có những hình rồng và hoa lá, một nét đặc trưng của mỹ thuật thời Lý. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ nhiều tác phẩm điêu khắc nghệ thuật thời Lý. Ngay ở bậc thềm thứ hai, có 10 tượng linh thú bằng đá gồm: sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại hai con, nằm trên bệ hoa sen tạc liền bằng những khối đá lớn được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định công nhận là Bảo vật quốc gia và những di vật thời Lý khác như đá ốp tường, đấu kê, chân tảng... trên đó chạm khắc các hình Kim Cương, Hộ pháp, thần điểu, các nhạc công, vũ nữ, cúc dây, cánh sen, hoa lá cách điệu...
Đầu rồng đất nung lưu giữ tại Bảo tàng và Xúc tiến Du lịch Bắc Ninh
Tại Bảo tàng và Xúc tiến Du lịch Bắc Ninh hiện nay đang lưu giữ và bảo quản 01 đầu rồng đất nung thời Lý ở chùa Phật Tích. Đầu rồng này được hai sinh viên Đức Trọng Sơn và Nguyễn Văn Trường thực tập tại Bảo tàng tỉnh Hà Bắc phát hiện tại gia đình ông Nguyễn Văn Phiến thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du. Theo lời kể của ông Phiến: đầu rồng này ở khu ruộng trước chân núi Cửa chùa, một người địa phương đi cày ruộng đã thấy và đưa lên bờ, ông Phiến nhận thấy đây là hiện vật có giá trị mang về nhà cất giữ sau đó bàn giao cho hai sinh viên thực tập đưa về Bảo tàngtỉnh Hà Bắc bảo quản, lưu giữ vào tháng 8 năm 1987.
Đầu rồng chất liệu bằng đất nung, là một khối tượng tròn có chiều cao 50 cm, điểm rộng nhất của chiều từ miệng đến bờm sau gáy là 60cm và chiều rộng là 25 cm, ở tư thế vận động. Miệng há to, ngậm ngọc, răng được thể hiện rõ ràng. Mũi và môi trên tạo thành mào lửa hình lôi văn chữ “S”. Lưỡi nhỏ dài cuốn lấy viên ngọc ngậm trong miệng. Mắt rồng to tròn và nổi rõ, tai được tạo thế uốn lượn theo chuyển động của bờm. Hiện vật còn nguyên đầu, phần bờm bị vỡ.
Theo các nhà nghiên cứu, đầu rồng là hiện vật giá trị, dùng để trang trí trên bộ mái kiến trúc truyền thống của đại danh lam cổ tự chùa Phật Tích, trong thời kỳ chống Pháp ngôi quốc tự này đã bị phá hủy hoàn toàn chỉ còn nền móng.Trên bộ mái, tượng đầu rồng được trang trí ở hai vị trí. Vị trí thứ nhất là ở đầu kìm, tức là ở đỉnh đầu hồi của công trình. Tượng trang trí ở vị trí này thường được gọi là con kìm. Còn vị trí thứ hai là ở điểm kết thúc của bờ chảy. Ở vị trí này tượng thường được gọi chung là con sô. Đầu rồng đất nung là minh chứng sinh động cho sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật tạo hình vàothời Lý (thế kỷ XI - XIII).
Nguyễn Hồng Minh- Phòng Bảo tàng
Các bài viết khác
ĐÈN ĐỒNG ĐÔNG SƠN 06-03-2025
Danh nhân Trương Hán Siêu và văn bia Khai Nghiêm bi ký 05-03-2025
Hệ thống tảng kê chân cột đình Đình Tổ, phường Đình Tổ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh 05-03-2025
Thuyền chải 25-02-2025
Lò gốm Đương Xá 25-02-2025
Mộ Hán 25-02-2025
Tàu rà phá bom từ trường không người lái T5A 24-02-2025
DẤU TÍCH KIẾN TRÚC THỜI LÝ Ở CHÙA BỒ VÀNG 23-02-2025
ĐÔI SẤU ĐÁ ĐÌNH LÀNG TỲ ĐIỆN 23-02-2025
Đá kè móng tháp chùa Dạm - điểm nhấn trong sưu tập hiện vật thời Lý tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh 22-02-2025