CBVCNLĐ Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh lan tỏa thông điệp về đạo lý “Hiếu nghĩa bác ái”, "Uống nước nhớ nguồn” và ôn lại truyền thống 75 năm ngày Thương binh, Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2022)

Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 là ngày Lễ kỷ niệm để cả đất nước, cả dân tộc tri ân, tưởng nhớ công ơn của những anh hùng liệt sĩ, thương bệnh binh, người có công với cách mạng đã hy sinh tính mạng, hoặc một phần thân thể vì nền độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Qua đó tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ về lòng biết ơn đối với những người có công với cách mạng.

Nhận thức sâu sắc về mục đích và ý nghĩa của ngày Thương binh - Liệt sỹ 27/7; Chi bộ, Chính quyền Bảo tàng Bắc Ninh tổ chức nhiều hoạt động thiết thực như:

- Tri ân và tặng quà cho các gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng;

- Quan tâm thăm hỏi, động viên chăm sóc, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng; động viên và giúp đỡ các gia đình liệt sỹ, thương binh  có hoàn cảnh khó khăn; 

- Vận động các cán bộ viên chức, người lao động trong cơ quan ủng hộ một ngày lương vì quỹ “ Đền ơn đáp nghĩa”.

Những việc làm có ý nghĩa đó mang ý nghĩa chính trị, nhân văn sâu sắc, thể hiện sự tri ân, sự quan tâm của Chi bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể của đơn vị đối với các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, đồng thời lan tỏa thông điệp về đạo lý “Hiếu nghĩa bác ái”, “Uống nước nhớ nguồn”.

Trong không khí trang  nghiêm, thành kính của cả dân tộc, hướng tới kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2022). Tập thể cán bộ, viên chức, người lao động Bảo tàng Bắc Ninh cùng nhau ôn lại truyền thống 75 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ.

1. Lịch sử của ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng “không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” để giữ gìn nền độc lập cho đất nước. Trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống hoặc đổ máu trên các chiến trường. Nỗi đau bao trùm lên toàn dân tộc, nhiều gia đình mất đi cả chồng và các con. Nhiều người vợ trẻ chỉ hưởng hạnh phúc vỏn vẹn trong một ngày. 

Theo lời kêu gọi của Đảng, của Chính phủ và Bác Hồ, kế thừa truyền thống “nhân ái, thủy chung” của dân tộc, nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu của mình cho các chiến sĩ và đồng bào đã vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh. Để góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát của gia đình các chiến sĩ, đồng bào, Đầu năm 1946, Chính quyền Việt Nam đã xúc tiến vận động thành lập một tổ chức, lấy tên gọi là “ Hội giúp binh sĩ tử nạn”.

“Hội giúp binh sĩ bị nạn” ra đời ở Thuận Hóa (Huế), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác ... Sau đó ít lâu được đổi thành “Hội giúp binh sĩ bị thương”. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội. Chiều ngày 28 tháng 5 năm 1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, “Tổng Hội” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng để kêu gọi đồng bào gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sĩ bị thương. Để giúp chiến sĩ trong mùa đông giá rét, cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ” được tổ chức trong cả nước, mở đầu bằng buổi lễ xung phong “Mùa đông binh sĩ” do Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam tổ chức chiều ngày 17 tháng 11 năm 1946 tại Hà Nội. Hồ Chủ tịch đã đến dự buổi lễ và tặng chiếc áo mà Người đang mặc (chiếc áo sau này bán đấu giá được 3.500 đồng).

Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19 tháng 12 năm 1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên. Thương binh, Liệt sĩ trở thành vấn đề lớn. Trước yêu cầu bức xúc đó, cùng với việc tiếp tục kêu gọi giúp đỡ thương binh, gia đình tử sĩ, ngày 16 tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác Thương binh Liệt sĩ; Để chỉ đạo công tác này trong cả nước, ngày 26/02/1947, Phòng Thương binh thuộc Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam được thành lập và đầu tháng 7 năm 1947, Bác Hồ đã đồng ý cho thành lập Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”.

Cũng trong thời gian này, tại một địa điểm xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; các đại biểu Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã dự một cuộc họp. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam, các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là “Ngày Thương binh toàn quốc”. Chiều ngày 27 tháng 7 năm 1947, “Ngày Thương binh toàn quốc” mở đầu bằng cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Tại cuộc mít tinh này, các đại biểu đã nghe:  Ông Lê Tất Đắc, đại diện Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam đọc thư của Hồ Chủ tịch gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”. Trong thư Người viết: “... Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu ...”.... Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy ”. Sau đó, ông  Đắc đã tóm lược về ngày đáng ghi nhớ này bằng câu ca dao:“Dù ai đi Đông về Tây; 27 tháng 7 nhớ ngày Thương binh. Dù ai lên thác xuống ghềnh; 27 tháng 7 Thương binh nhớ ngày ”.

Tại cuộc mít tinh, ông Lê Thành Ân, Phó Trưởng phòng Thương binh, thuộc Chính trị Cục nói về mục đích, ý nghĩa của “Ngày Thương binh toàn quốc” và trách nhiệm của toàn dân đối với Thương binh, Liệt sĩ.

Từ đó, hàng năm đến ngày 27 tháng 7, Bác Hồ đều gửi thư thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Từ tháng 7 năm 1955, “Ngày Thương binh toàn quốc” được đổi thành “Ngày Thương binh - Liệt sĩ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 8 tháng 7 năm 1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hàng năm chính thức trở thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” của cả nước.

Cùng với chiều dài lịch sử, 75 năm qua, với các tên gọi “Ngày Thương binh toàn quốc”, Ngày Thương binh - Liệt sĩ” và được tổ chức trong những hoàn cảnh khác nhau (chiến tranh, hòa bình ở nửa đất nước, đất nước thống nhất, cả nước tiến hành công cuộc đổi mới..), nhưng đúng như mục tiêu đề ra ban đầu, mỗi năm đến “Ngày Thương binh - Liệt sĩ” ngày 27 tháng 7, trên đất nước ta lại dấy lên nhiều việc làm thiết thực, đầy tình nghĩa chăm sóc Thương bệnh binh, động viên thăm hỏi và giúp đỡ các gia đình liệt sĩ, gia đình người có công với cách mạng thể hiện truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những người đã vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân mà hy sinh, cống hiến.

Với tinh thần và ý nghĩa sâu sắc đó, ngày 27/7 đã trở thành một ngày kỷ niệm thiêng liêng đối với các anh hùng liệt sỹ, các Thương bệnh binh, các chiến sỹ cách mạng  và là nguyện vọng của toàn dân tộc “đời đời ghi nhớ công lao to lớn của các anh hùng liệt sỹ, các Thương bệnh binh và những người có công với cách mạng”. Những hy sinh, cống hiến xương máu của các liệt sỹ, thương bệnh binh đối với tổ quốc, với nhân dân, họ có quyền tự hào về những gì mình đã hy sinh, đóng góp cho Tổ quốc và cho nhân dân để có cuộc sống hòa bình, ấm no như ngày hôm nay. Hàng năm cứ đến ngày 27/7 cũng là dịp để lan tỏa đạo lý “ Uống nước nhớ nguồn” tới xã hội và nhân dân cả nước; đồng thời cũng là dịp để giáo dục truyền thống anh hùng cách mạng cho lớp lớp thế hệ trẻ hôm nay biết phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần cách mạng của dân tộc, hăng say rèn luyện, cống hiến sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây cũng là dịp để giáo dục ý thức trách nhiệm, lòng biết ơn của các tầng lớp nhân dân đối với các Thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người có công với cách mạng. Khắc ghi và tôn vinh công lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ, thương bệnh binh, những người có công với cách mạng; Thực hiện Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 28/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường chăm sóc người có công với cách mạng và hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, với truyền thống tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta, ngày 27/7 hàng năm đã trở thành ngày có ý nghĩa lịch sử, chính trị, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.

2. Ý nghĩa:

Ngày Thương binh - Liệt sỹ có ý nghĩa lịch sử, chính trị, xã hội sâu sắc: Thể hiện sự tiếp nối truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc; thể hiện sự biết ơn, trân trọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đối với những người đã hy sinh, cống hiến vì độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Khẳng định việc chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công là vinh dự, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, tổ chức chính trị xã hội và của mọi người, của thế hệ hôm nay và mai sau đối với sự cống hiến, hy sinh của các anh hùng, liệt sỹ, thương binh cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân

Góp phần giáo dục truyền thống cách mạng qua đó phát huy tinh thần yêu nước, củng cố và bồi đắp niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.

Ngày đăng: 14-07-2022
PHÒNG HÀNH CHÍNH – TỔNG HỢP
Các bài viết khác

Giờ tham quan

Địa chỉ

Liên kết website